Tiểu sử Cư_Hòa_Vần

Ông sinh ngày 15 tháng 5 năm 1935, tại xã Quan Thần Sán, huyện Bắc Hà (nay là huyện Si Ma Cai), tỉnh Lào Cai, trong một gia đình nông dân nghèo người Mông.

Nhưng mọi thiếu niên nghèo người Mông khác, từ nhỏ ông không được học hành. Mãi đến cuối năm 1949, khi các cán bộ phong trào Việt Minh xâm nhập Lào Cai để xây dựng cơ sở, ông được chọn đi học tiếng phổ thông và được đào tạo để trở thành liên lạc viên cho cán bộ dân vận của Việt Minh, chống lại quyền kiểm soát của vua Mèo Hoàng A Tưởng. Tháng 11 năm 1950, ông là người dẫn đường cho Trung đoàn 165 Lao Hà tập kích vào thị trấn Bắc Hà, tiêu diệt các đồn Pháp tại đây và đánh đuổi Hoàng A Tưởng.

Sau khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt quyền kiểm soát ở vùng Bắc Hà, ông được cho đi học các lớp Bình dân học vụ xóa mù chữ, sau đó theo học các lớp học bổ túc kiến thức, được đào tạo để trở thành một cán bộ dân vận, tham gia các hoạt động tiễu phỉ tại các huyện trong tỉnh như Bắc Hà, Bát Xát, Sa Pa. Ông là một trong số cán bộ dân tộc thiểu số của Lào Cai được tiếp kiến với Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 24 tháng 9 năm 1958, khi Chủ tịch lên thăm Lào Cai. Ông được biểu dương và trao tặng Huân chương tiễu phỉ.

Năm 1959, ông được cử làm cán bộ Thuế. Tuy nhiên không lâu sau ông được cử đi học tại Trường Chính trị Việt Bắc và đến năm 1960, lúc mới 25 tuổi ông đã được bầu làm Phó chủ tịch huyện Bắc Hà[2]. Năm 1963, ông trở thành Phó chủ tịch tỉnh Lào Cai khi mới 28 tuổi.

Được xem là người nỗ lực nâng cao kiến thức, ông tham gia nhiều lớp học bổ túc và dần theo học lên đến bậc Đại học và đã có 2 bằng đại học, sử dụng 2 ngoại ngữ tiếng Anh và tiếng Trung. Cuối năm 1975, khi Lào Cai sáp nhập vào tỉnh Hoàng Liên Sơn, ông được cử làm Phó Chủ tịch tỉnh. Năm 1976, ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội và sau đó được phân công giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hoàng Liên Sơn.

Năm 1978, ông được điều về Trung ương giữ chức vụ Trưởng ban Định canh định cư Trung ương. Một năm sau, ông được điều sang giữ chức vụ Phó chủ nhiệm Văn phòng Dân tộc Miền núi của Chính phủ. Ông giữ chức vụ này trong 14 năm trước khi được bầu làm Đại biểu Quốc hội và được phân công vào vị trí Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa IX vào năm 1992. Năm 1997, ông tái đắc cử Đại biểu Quốc hội, thuộc đoàn đại biểu Lào Cai[3] và được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa X.

Sau khi nghỉ hưu, năm 2004, ông được bầu làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông giữ chức vụ này cho đến khi qua đời.

Ông mất ngày 17 tháng 8 năm 2010 tại Hà Nội và được an táng ngày 20 tháng 8 năm 2010 tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội [4]